Each of the chemoreceptor bodies receives its own special
blood supply through a minute artery directly from the adjacent
arterial trunk. Further, blood flow through these bodies is extreme, 20
times the weight of the bodies themselves each minute. Therefore, the percentage
of O2
removed from the flowing blood is virtually
zero, which means that the chemoreceptors are exposed at all times
to arterial blood, not venous blood, and their PO2
values are arterial PO2 values.
Decreased Arterial Oxygen Stimulates the Chemoreceptors.
When the oxygen concentration in the arterial
blood falls below normal, the chemoreceptors become strongly
stimulated. This effect is demonstrated in Figure42-5, which shows the
effect of different levels of arterial PO2 on the rate of
nerve impulse transmission from a
carotid body. Note that the impulse rate is particularly sensitive
to changes in arterial PO2 in the range of 60 down to 30 mm Hg, a range in
which hemoglobin saturation with oxygen decreases rapidly.
|
Mỗi
một thụ thể hóa học nhận nguồn cung cấp máu riêng biệt cho nó thông qua một động
mạch nhỏ trực tiếp từ thân động mạch kề bên.Hơn nữa, dòng máu qua những thụ
thể này là rất lớn, gấp 20 lần cân nặng của thụ thể mỗi phút.Vì vậy, phần
trăm O2 lấy ra từ dòng máu là hầu như bằng 0, có nghĩa là những receptor hóa
học được tiếp xúc với máu động mạch mọi lúc, không phải là máu tĩnh mạch và
giá trị PO2 của chúng là PO2 của máu động mạch.
Oxi máu động mạch giảm kích
thích thụ thể hóa học.
Khi
nồng độ O2 trong máu động mạch giảm thấp dưới mức bình thường, thụ thể hóa học
trở nên bị kích thích mạnh mẽ. Hiệu ứng này được thể hiện trong hình42-5 mà
cho thấy ảnh hưởng của những mức PO2 máu động mạch khác nhau lên tốc độ dẫn truyền
xung thần kinh từ thân động mạch cảnh.Chú ý rằng tốc độ xung TK nhạy cảm đặc
biệt với sự thay đổi PO2 máu động mạch trong khoảng từ 60 giảm xuống còn 30
mmHg, trong khoảng này, độ bão hòa của Hb với O2 giảm nhanh.
|
Increased Carbon Dioxide
and Hydrogen
Ion Concentration Stimulates the Chemoreceptors.
An increase in either CO2 concentration or hydrogen ion concentration also excites the chemoreceptors and,
in this way, indirectly increases respiratory activity. However, the direct
effects of both these factors
in the respiratory center are much more powerful than their effects mediated through the chemoreceptors (about seven times as powerful).
Yet there is one difference between the peripheral
and central effects of CO2: The stimulation
by way of the peripheral
chemoreceptors occurs as much as five
times as rapidly
as central stimulation, so the peripheral
chemoreceptors
might be especially important in increasing the rapidity of response to
CO2 at the onset of exercise.
|
Giảm nồng độ CO2 và ion H+
kích thích receptor hóa học.
Tăng
nồng độ CO2 hoặc nồng độ ion H+ cũng kích thích receptor hóa học và bằng cách
này tăng hoạt động hô hấp gián tiếp. Tuy nhiên, ảnh hưởng trực tiếp của cả 2
yếu tố này đối với trung tâm hô hấp mạnh hơn nhiều so với ảnh hưởng của chúng
gián tiếp qua thụ thể hóa học ( Mạnh hơn khoảng 7 lần).Lúc này, có một sự
khác nhau giữa ảnh hưởng của CO2 ngoại biên và CO2 trung ương: sự kích thích
bằng đường receptor hóa học ngoại biên xảy ra nhanh hơn đến những 5 lần so với
kích thích trung ương , vì vậy receptor hóa học ngoại biên có thể đặc biệt
quan trọng trong gia tăng mức độ nhanh chóng của đáp ứng với CO2 lúc bắt đầu
luyện tập.
|
Basic Mechanism of Stimulation of the
Chemoreceptors by O2 Deficiency.
The exact means by which low PO2
excites the nerve endings in the carotid and aortic bodies are still not completely
understood. However,these bodies have multiple highly characteristic
glandular-like cells, called glomus cells, that synapse directly or indirectly
with the nerve endings. Current evidence suggests that these glomus cells
function as the chemoreceptors and then stimulate the nerve endings (Figure 42-6).
Glomus cells have O2-sensitive
potassium channels that are inactivated
when blood PO2
decreases markedly. This inactivation causes the cell to
depolarize, which, in turn,opens voltagegated
calcium channels and increases
intracellular calcium ion concentration. The increased calcium
ions stimulate release of a neurotransmitter that activates afferent neurons
that send signals to the central
nervous system and stimulate respiration. Although early studies
suggested that dopamine or acetylcholine might be the main neurotransmitters,
more recent studies
suggest that during hypoxia, adenosine triphosphate may be the
key excitatory neurotransmitter released by carotid
body glomus cells.
|
Cơ
chế nền tẳng của sự kích thích thụ thể hóa học bởi sự thiếu O2.
Cách
thức chính xác mà mức PO2 thấp kích thích đầu mút thần kinh ở thân động mạch
cảnh và động mạch chủ thì vẫn chưa được hiểu hoàn toàn.Tuy nhiên, những thụ
thể này có những hợp bào giống hình tuyến có tính đặc trưng cao, được gọi là
tb glomus, mà tạo khớp thần kinh( synap) trực tiếp hoặc gián tieoes với những
đầu mút thần kinh. Bằng chứng hiện tại gợi ý rằng tb glomus thực hiện chức
năng như những thụ thể hóa học và sau đó kích thích đầu mút TK (hình42-6). Tb glomus có kênh K nhạy
cảm O2 mà bị bất hoạt khi PO2 máu giảm rõ rệt. Sự bất hoạt này khiến tb khử cực,
kết quả là mở kênh Ca chậm ( Voltage-gated) và làm tăng nồng độ ion Ca nội
bào.Ion Ca tăng kích thích giải phóng một chất dẫn truyền thần kinh,hoạt hóa
thần kinh hướng tâm, gửi tín hiệu về hệ thống thần kinh trung ương và kích
thích hô hấp.Mặc dù, những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng dopamin hoặc
acetylcholine có thể là chất dẫn truyền thần kinh chính, nhiều nghiên cứu hiện
nay gợi ý rằng trong khi thiếu khí, ATPase có lẽ là chất dẫn truyền thần kinh
then chốt mang tính kích thích được giải phóng bởi những tb glomus thân động
mạch cảnh.
|
Effect of Low Arterial PO2 to
Stimulate Alveolar Ventilation When Arterial CO2
and Hydrogen Ion
Concentrations
Remain Normal
Figure 42-7 shows
the effect of low arterial PO2 on alveolar
ventilation when the PCO2 and the hydrogen
ion concentration are kept constant at their normal levels. In other words, in this figure, only the ventilatory
drive,
because of the effect of low O2 on
the chemoreceptors, is active. The figure
shows almost no effect on ventilation as long as the arterial PO2 remains
greater than 100 mm Hg.
However, at pressures lower than 100 mm Hg, ventilation
approximately doubles when the arterial PO2 falls
to...
|
Tác động của PO2 máu động mạch
thấp để kích thích thông khí phế nang khi nồng độ CO2 và ion H+ máu động mạch
vẫn duy trì ở mức bình thường.
Hình
42-7 cho thấy tác động của PO2 máu động mạch thấp đối với thông khí phế nang
khi PCO2 và nồng độ ion H+ được gữ hằng định ở mức bình thường. Nói cách
khác, trong hình này,sự gắng sức thông khí chỉ được kích hoạt bởi vì ảnh hưởng
của mức O2 thấp lên các thụ thể hóa học. Hình ảnh cho thấy hầu như không có
tác động nào khác lên sự thông khí chỉ cần PO2 máu động mạch vẫn duy trì lớn
hơn 100mmHg. Tuy nhiên, ở áp lực thấp hơn 100mmHg, sự thông khí xấp xỉ gấp 2
lần khi PO2 máu động mạch giảm xuống....
Người Dịch: SP
|
Tìm kiếm Blog này
Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016
Regulation of Respiration (516)
Regulation of Respiration (515)
signals is increased or decreased to match the ventilatory
needs of the body. For example, during heavy exercise, the rates of oxygen
(O2) and carbon dioxide (CO2) formation are often increased to as much as 20
times normal, requiring commensurate increases in
pulmonary ventilation. The
major purpose of the remainder of this chapter is to discuss this control of
ventilation in accord with the respiratory needs of the body.
CHEMICAL CONTROL OF
RESPIRATION
The ultimate goal
of respiration is
to maintain proper concentrations of
O2, CO2, and
hydrogen ions in
the tissues. It is
fortunate, therefore, that
respiratory activity is
highly responsive to
changes in each
of these substances.Excess CO2 or
excess hydrogen ions
in the blood mainly act
directly on the
respiratory center, causing greatly increased strength of both
the inspiratory and the expiratory motor signals to the respiratory muscles.
Oxygen, in contrast, does not have a significant direct effect
on the respiratory center of the brain in controlling respiration. Instead,
it acts almost entirely on peripheral chemoreceptors located in the
carotidand aortic bodies, and
these chemoreceptors in turn
transmit appropriate
nervous signals to the respiratory
center for control of respiration.
DIRECT CHEMICAL CONTROL
OF RESPIRATORY CENTER ACTIVITY BY CO2AND HYDROGEN IONS
Chemosensitive Area
of the Respiratory
Center Be neath the
Ventral Surface of
the Medulla.
We have mainly discussed
three areas of
the respiratory center: the dorsal
respiratory group of
neurons, the ventral respiratory
group, and the pneumotaxic center. It
is believed that
none of these
is affected directly
by changes in blood
CO2 concentration or hydrogen
ion concentration.
Instead, an additional neuronal
area, a chemosensitive area,
shown in Figure 42-2,
is located bilaterally, lying
only 0.2 millimeter
beneath the ventral surface of
the medulla. This area
is highly sensitive
to changes in either blood PCO2orhydrogen ion concentration, and it
in turn excites the other portions of the respiratory center.
Excitation of the
Chemosensitive Neurons by Hydrogen Ions Is Likely
the Primary Stimulus
The sensor neurons in the chemosensitive area are especially
excited by hydrogen ions; in fact, it is believed that hydrogen ions may be
the only important direct stimulus for these neurons. However, hydrogen ions
do not easily cross the blood brain barrier. For this reason, changes in
hydrogen ion concentration in the blood have considerably less effect in
stimulating the chemosensitive neurons than
do changes in
blood CO2, even
though CO2 is believed to
stimulate these neurons secondarily by changing the hydrogen ion
concentration, as explained in the
following section.
CO2 Stimulates the
Chemosensitive Area
Although CO2 has little
direct effect in
stimulating the neurons in the
chemosensitive area, it does have a potent indirect effect. It has this
effect by reacting with the water of the tissues to form carbonic acid, which
dissociates into hydrogen and bicarbonate ions; the hydrogen ions then
have a
potent direct stimulatory effect
on respiration. These reactions
are shown in Figure 42-2.
Why does blood
CO2 have a more
potent effect in stimulating the
chemosensitive neurons than
do blood hydrogen ions? The
answer is that the bloodbrain barrier is not very permeable to hydrogen
ions, but CO2 passes through this barrier almost as if the barrier did not
exist. Consequently, whenever the
blood PCO2 increases, so does the PCO2 of both the interstitial
fluid of the medulla and the cerebrospinal fluid.
In both these
fluids, the CO2 immediately reacts
with the water to
form new hydrogen ions.
Thus, paradoxically, more
hydrogen ions are
released into the
respiratory chemosensitive
sensory area of
the medulla when the
blood CO2 concentration
increases than when the blood hydrogen ion concentration increases.
For this reason,
respiratory center
activity is increased very strongly
by changes in blood
CO2, a fact
that we subsequently discuss
Quantitatively
.Decreased Stimulatory Effect of CO2After the First 1 to 2
Days
. Excitation of the respiratory center by CO2 is great the
first few hours after the blood CO2 first increases, but then it gradually declines over the
next 1 to 2 days,
|
tín hiệu tăng hoặc giảm để phù hợp với nhu cầu thông khí của
cơ thể. Ví dụ, khi tập thể dục nặng, tỷ lệ oxy (O2) và carbon dioxide (CO2)
thành thường được tăng lên đến gấp 20 lần bình thường, đòi hỏi phải tăng
tương xứng trong thông khí phổi. Mục đích chính của phần còn lại của chương
này là để thảo luận về kiểm soát này thông gió phù hợp với nhu cầu hô hấp của
cơ thể.
KIỂM SOÁT HÓA HỌC CỦA
HÔ HẤP.
Mục tiêu cuối cùng của hô hấp là để duy trì nồng độ thích hợp
của O2, CO2, và các ion hydro trong các mô. Đó là may mắn, vì vậy, hoạt động
hô hấp là cao đáp ứng với những thay đổi trong mỗi vật chất. CO2 thừa hoặc
các ion hydro dư thừa trong máu tác động trực tiếp vào các trung tâm hô hấp,
gây gia tăng đáng kể tín hiểu vận động đến cả hai thì hít vào và thở ra cho cơ hô hấp.
Oxygen, ngược lại, không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể trên
các trung tâm hô hấp của não bộ trong việc kiểm soát hô hấp. Thay vào đó, nó
hoạt động gần như hoàn toàn vào ngoại vi qua receptor hóa học trong quai động
mạch chủ carotidand, và các receptor hóa học lần lượt truyền tín hiệu thần
kinh thích hợp với trung tâm hô hấp để kiểm soát hô hấp.
SỰ KIỂM SOÁT
TRỰC TIẾP CỦA HÓA HỌC VÀO TRUNG TÂM HÔ HẤP THÔNG QUA CO2 VÀ H+
Thụ thể hóa học
của trung tâm hô hấp nằm dưới mặt bụng của tủy sống.Chúng ta có
thể thảo luận 3 vùng của trung tâm hô hấp :
các nhóm lưng hô hấp của tế bào thần kinh,
nhóm hô hấp bụng, và các trung tâm pneumotaxic. Người ta tin rằng không cái
nào trong số đó những bị ảnh hưởng trực tiếp bởithay đổi nồng độ CO2 trong
máu hoặc nồng độ ion hydro. Thay vào đó, một khu vực thêm tế bào thần kinh, một
khu vực thụ thể hóa học, thể hiện trong hình 42-2, nằm song phương, nằm cách 0,2
mm dưới bề mặt bụng của tủy. Khu vực này là rất nhạy cảm với những thay đổi
trong cả hai nồng độ ion PCO2 hoặc H+ máu, và nó lần lượt kích thích các phần
khác của trung tâm hô hấp.
Kích
thích của các tế bào thần kinh ở thụ thể hóa học bởi ion H+ là những kích
thích yếu
Các tế bào thần kinh cảm biến trong khu vực
thụ thế hóa học được đặc biệt kích thích bởi các ion hydro; trên thực tế, người
ta tin rằng các ion hydro có thể là chỉ kích thích trực tiếp quan trọng cho
các tế bào thần kinh. Tuy nhiên, các ion hydro không dễ dàng vượt qua hàng
rào máu não. Vì lý do này, những thay đổi về nồng độ ion hydro trong máu có
ít hiệu quả trong việc kích thích các tế bào thần kinh ở thụ thể hóa học hơn thay đổi
CO2, mặc dù CO2 được cho là kích thích các tế bào thần kinh secondarily bằng
cách thay đổi nồng độ ion hydro, như được giải thích trong ở phần sau.
CO2 kích
thích Khu vực thụ thể hóa học
Mặc dù CO2 ít có tác dụng trực tiếp trong việc kích thích
các tế bào thần kinh trong vùng thụ thể hóa học,nhưng nó có một tác động gián tiếp mạnh. Nó có tác
dụng điều này bằng cách phản ứng với nước của các mô để tạo thành axit
cacbonic, mà phân ly thành ion hydro và bicarbonate; các ion hydro sau đó có
một tác dụng kích thích trực tiếp mạnh về hô hấp. Những phản ứng này được thể
hiện trong hình 42-2.
Tại sao CO2 trong máu có ảnh hưởng mạnh hơn trong việc
kích thích các tế bào thần kinh ở thụ thể hóa học hơn làm ion hydro trong
máu? Câu trả lời là hàng rào máu não không cho H+ đi qua nhưng ngược lại với
CO2. Do đó, bất cứ khi nào pCO2 máu tăng lên, sẽ làm tăng pCO2 cả các dịch kẽ của tủy và dịch não tủy.
Trong những chất lỏng này, CO2 ngay lập
tức phản ứng với nước để tạo thành các ion hydro mới. Vì vậy, nghịch lý, các
ion hydro được giải phóng vào vùng cảm giác thụ thể hóa học của tủy khi CO2
máu tập trung tăng hơn khi hydro máu nồng độ ion tăng. Vì lý do này, hoạt động
trung tâm hô hấp đang tăng rất mạnh bởi những thay đổi trong CO2 máu, một thực
tế mà chúng tôi sau đó thảo luận
.
Giảm ảnh hưởng do kích thích của CO2 sau 1 -2 ngày. Kích
thích của các trung tâm hô hấp của CO2 là rất tốt trong vài giờ đầu tiên sau
khi CO2 trong máu tăng đầu tiên, nhưng sau đó nó giảm dần trong 1-2 ngày tới...
Người dịch: Ngô Tuấn
|
Regulation of Respiration( P514)
A PNEUMOTAXIC CENTER LIMITS THE DURATION OF INSPIRATION
AND INCREASES THE RESPIRATORY RATE
A pneumotaxic center, located dorsally in the nucleus
parabrachialis of the upper pons, transmits signals to , the inspiratory
area. The primary effect of this center is to control the “switchoff” point
of the inspiratory ramp, thus controlling the duration of the filling phase
of the lung cycle. When the pneumotaxic signal is strong, inspiration might
last for as little as 0.5 second, thus filling the lungs only slightly; when the
pneumotaxic signal is weak, inspiration might continue for 5 or more seconds,
thus filling the lungs with a great excess of air.
The function of the pneumotaxic center is primarily to
limit inspiration, which has a secondary effect of increasing the rate of
breathing, because limitation of inspiration also shortens expiration and the
entire period of each respiration. A strong pneumotaxic signal can increase
the rate of breathing to 30 to 40 breaths per minute, whereas a weak pneumotaxic
signal may reduce the rate to only 3 to 5 breaths per minute.
VENTRAL RESPIRATORY GROUP OF NEURONS—FUNCTIONS IN BOTH INSPIRATION
AND EXPIRATION
Located in each
side of the medulla, about 5 millimeters anterior and lateral to the dorsal
respiratory group of neurons, is the ventral respiratory group of neurons,
found in the nucleus ambiguus rostrally and the nucleus retroambiguus
caudally. The function of this neuronal group differs from that of the dorsal
respiratory group in several important ways:
1.
The neurons of the ventral respiratory group
remain almost totally inactive during normal quiet respiration. Therefore,
normal quiet breathing is caused only by repetitive inspiratory signals from
the dorsal respiratory group transmitted mainly to the diaphragm, and
expiration results from elastic recoil of the lungs and thoracic cage.
2.
The
ventral respiratory neurons do not appear to participate in the basic
rhythmical oscillation that controls respiration.
3.
When
the respiratory drive for increased pulmonary ventilation becomes greater
than normal, respiratory signals spill over into the ventral respiratory
neurons from the basic oscillating mechanism of the dorsal respiratory area.
As a consequence, the ventral respiratory area contributes extra respiratory
drive as well.
4.
Electrical stimulation of a few of the neurons
in the ventral group causes inspiration, whereas stimulation of others causes
expiration. Therefore, these neurons contribute to both inspiration and
expiration. They are especially important in providing the powerful expiratory
signals to the abdominal muscles during very heavy expiration. Thus, this area
operates more or less as an overdrive mechanism when high levels of pulmonary
ventilation are required, especially during heavy exercise.
INSPIRATION—THE HERING-BREUER
NFLATION REFLEX
In addition to the central
nervous system respiratory control mechanisms operating entirely within the
brain stem, sensory nerve signals from the lungs also help control
respiration. Most important, located in the muscular portions of the walls of
the bronchi and bronchioles throughout the lungs are stretch receptors that
transmit signals through the vagi into the dorsal respiratory group of
neurons when the lungs become overstretched. These signals affect inspiration
in much the same way as signals from the pneumotaxic center; that is, when
the lungs become overly inflated, the stretch receptors activate an appropriate
feedback response that “switches off” the inspiratory ramp and thus stops
further inspiration. This mechanism is called the Hering-Breue inflation
reflex. This reflex also increases the rate of respiration, as is true for
signals from the pneumotaxic center.
In humans, the HeringBreuer reflex
probably is not activated until the tidal volume increases to more than three
times normal (>≈1.5 liters per breath). Therefore, this reflex appears to
be mainly a protective mechanism for preventing excess lung inflation rather
than an important ingredient in normal control of ventilation.
CONTROL OF OVERALL RESPIRATORY CENTER ACTIVITY
Up to this point, we have discussed the basic mechanisms
for causing inspiration and expiration, but it is also important to know how
the intensity of the respiratory control
|
TRUNG TÂM ĐIỀU CHỈNH THỞ HẠN CHẾ THỜI GIAN THỞ VÀO VÀ TĂNG
TẦN SỐ THỞ
Trung tâm điều chỉnh thở, nằm ở mặt lưng cạnh nhân não ở cầu não trên, truyền tín hiệu
đến vùng hít vào. Ảnh hưởng đầu tiên của trung tâm này là điều khiển “tắt” điểm
của thì hít vào, do đó điều khiển thời gian của pha hít vào. Khi tín hiệu hô
hấp khỏe, sự hít vào có thể kéo dài trong 0.5 giây, do dó sự đổ đầy của phổi rất ít;
khi tín hiệu hô hấp yếu , sự hít vào có thể kéo dài đến 5 giây hoặc hơn, do
đó đổ đầy phổi với một lượng khí dư lớn.
Chức năng của trung tâm điều chỉnh thở chủ yếu là hạn chế
sự hít vào,điều này có ảnh hưởng thứ
phát lên việc tăng tần số thở, bởi vì việc hạn chế thì hít vào cũng làm rút
ngắn thì thở ra và toàn bộ quá trình hô hấp. Một ín hiệu hô hấp khỏe có thể
làm tăng tần số thở lên tới 30-40 lần trên phút, trong khi đó một tín hiệu hô
hấp yếu có thể làm giảm tần số thở chỉ 3-5 lần trên phút.
NHÓM NƠRON HÔ HẤP BỤNG- CHỨC NĂNG CẢ HÍT VÀO VÀ THỞ RA
Nằm ở mỗi bên hành tủy, cách khoảng 5mm phía trước và phía
bên của nhóm nơron hô hấp lưng, là nhóm nơron hô hấp bụng, tìm thấy ở nhân
hoài nghi và nhân sau hoài nghi đuôi. Chức năng của nhóm nơron này khác so với nhóm hô hấp lưng ở một vài
điều quan trọng:
1.Những tế bào thần kinh của nhóm hô hấp bụng còn lại hầu
như hoàn tòa bất hoạt trong suốt quá trình thở nhẹ nhàng bình thường. Do đó,
sự thở nhẹ nhàng bình thường được gây ra chỉ bởi tín hiệu hô hấp lặp đi lặp lại
từ nhóm hô hấp lưng truyền đến cơ hoành là chính, và sự thở ra là kết quả của
sự đàn hồi của phổi và lồng ngực .
2.Những nơrron hô hấp bụng không xuất hiện để tham gia nhịp
cơ bản kiểm soát hô hấp.
3. Khi sự hô hấp làm tăng thông khí phổi trở nên tốt hơn
bình thường, tín hiệu hô hấp tràn vào các nơron hô hấp bụng bởi cơ chế dao động
cơ bản của vùng hô hấp lưng. Như một hệ quả, vùng hô hấp bụng góp phần làm
cho hô hấp tốt hơn.
4. Sự kích thích điện của một số ít các nơron ở nhóm bụng
gây ra sự hít vào, mặt khác sự kích thích của các noron khác gây ra sự thở ra. Do đó, các noron này góp phần vào cả
hít vào và thở ra. Chúng đặc biệt rất quan trọng trong việc cung cấp năng lượng
cho tín hiệu thở ra đến các cơ bụng trong khi thở gắng sức. Do đó, vùng này
hoạt động nhiều hoặc ít hơn so với cơ chế làm việc gắng sức khi mức thông khí
phổi cao được yêu cầu, đặc biệt là trong bài tập gắng sức.
HÍT VÀO- PHẢN XẠ CĂNG PHỔI HERING-BREUER
Thêm vào đó cơ chế điều khiển hô hấp hệ thần kinh trung
ương hoạt động hoàn toàn với thân não, tín hiệu thần kinh nhạy cảm từ phổi
cũng giúp điều khiển hô hấp. Quan trọng nhất, phần thành cơ phế quản và tiểu
phế quản khắp phổi là các thụ thể cảm nhận sự căng truyền tín hiệu đến dây X
vào nhóm noron hô hấp lưng khi phổi trở nên quá căng. Các tín hiệu này ảnh hưởng
đến sự hít vào rất nhiều giống cách mà tín hiệu từ trung tâm điều chỉnh thở;
đó là khi phổi trở nên quá căng, các thụ thể cảm nhận sức căng hoạt hóa một
phẩn hồi ngược mà “tắt” thì hít vào và do đó dừng hít vào thêm nữa. Cơ chế
này được gọi là phản xạ căng phổi Hering-Breue. Phản xạ này cũn làm tăng tần
số thở , như là các tín hiệu đúng từ trung tâm điều chỉnh thở.
Ở người, phản xạ hering-Breue có thể không được hoạt hóa
cho tới khi thể tích lưu thông tăng nhiều hơn 3 lần bình thường (>= 1.5L
trên 1 nhịp thở). Do đó, phản xạ thở này xuất hiện theo cơ chế bảo vệ là
chính để ngăn ngừa sự tăng quá mức của phổi hơn là một chênh lệch quan trọng
trong điều khiển bình thường của thông khí.
ĐIỀU KHIỂN HOẠT ĐỘNG TRUNG TÂM HÔ HẤP TỔNG THỂ
Đến thời điểm này, chúng ta đã bàn luận về các cơ chế cơ bản gây nên hít
vào và thở ra, nhưng điều đó cũng quan trọng để biết mức độ điều khiển hô hấp là như thế nào..
Người dịch: Tú Fat
|
Regulation of Respiration ( P513)
The nervous system normally adjusts the rate of alveolar
ventilation almost exactly to the demands of the body so that the oxygen
partial pressure (PO2) and carbon dioxide partial pressure (PCO2) in the
arterial blood
are hardly altered, even during heavy exercise and most other types of respiratory stress. This chapter describes the function of this neurogenic system for regulation of respiration
RESPIRATORY CENTER
The respiratory center is composed of several groups of neurons located bilaterally in the medulla oblongata and pons of the brain stem, as shown in Figure 42-1. It is divided into three major collections of neurons: (1) a dorsal respiratory group, located in the dorsal portion of the medulla, which mainly causes inspiration; (2) a ventral respiratory group, located in the ventrolateral part of the medulla, which mainly causes expiration; and (3) the pneumotaxic center, located dorsally in the superior portion of the pons, which mainly controls rate and depth of breathing.
DORSAL RESPIRATORY GROUP
OF NEURONS—ITS CONTROL OF INSPIRATION AND RESPIRATORY RHYTHM The dorsal respiratory group of neurons plays a fundamental role in the control of respiration and extends most of the length of the medulla. Most of its neurons are located within the nucleus of the tractus solitarius (NTS), although additional neurons in the adjacent reticular substance of the medulla also play important roles in respiratory control. The NTS is the sensory termination of both the vagal and the glossopharyngeal nerves, which transmit sensory signals into the respiratory center from (1) peripheral chemoreceptors, (2) baroreceptors, and (3) several types of receptors in the lungs.
Rhythmical Inspiratory Discharges From the Dorsal Respiratory
Group.
The basic rhythm of respiration is generated mainly in the
dorsal respiratory group of neurons. Even when all the peripheral nerves
entering the medulla have been sectioned and the brain stem has been
transected both above and below the medulla, this group of neurons still
emits repetitive bursts of inspiratory neuronal action potentials. The
basic cause of these repetitive discharges is unknown. In primitive animals,
neural networks have been found in which activity of one set of neurons
excites a second set, which in turn inhibits the first. Then, after a period,
the mechanism repeats itself, continuing throughout the life of the animal.
Most respiratory physiologists believe that some similar network of neurons
is present in the human being, located entirely within the medulla; it
probably involves not only the dorsal respiratory group but adjacent areas of
the medulla as well, and it is responsible for the basic rhythm of
respiration.
|
Hệ
thống thần kinh bình thường điều chỉnh tỷ lệ thông khí ở phổi gần như chính
xác với nhu cầu của cơ thể để áp suất riêng phần oxy (PO2) và áp suất riêng
phần carbon dioxide (pCO2) trong máu động mạch hầu như không thay đổi, ngay cả
khi vận động nặng và hầu hết các loại stress về đường hô hấp. Chương này mô tả
các chức năng của hệ thống thần kinh này trong việc điều tiết hô hấp.
TRUNG TÂM HÔ HẤP
Các
trung tâm hô hấp bao gồm một số nhóm tế bào thần kinh nằm hai phía trong tủy
não và cầu não của thân não, như trong hình 42-1. Nó chia thành ba nhóm tế
bào thần kinh chính: (1) một nhóm hô hấp lưng, nằm ở phần lưng
tủy,
mà chủ yếu là gây ra hít vào; (2) một nhóm hô hấp bụng, nằm ở phần bụng bên của
tủy, trong đó chủ yếu gây thở ra; và (3) trung tâm điều chỉnh hô hấp, nằm ở
lưng phần trên cầu não, chủ yếu là kiểm soát tần số và chiều sâu
của
hơi thở.
NHÓM TẾ BÀO THẦN KINH HÔ HẤP
LƯNG – KIỂM SOÁT THÌ HÍT VÀO VÀ NHỊP HÔ HẤP
Các
nhóm tế bào thần kinh hô hấp lưng đóng vai trò cơ bản trong việc kiểm soát hô
hấp và kéo dài nhất của chiều dài của tủy. Hầu hết các tế bào thần kinh của
nó được đặt trong các nhân bó đơn độc (NTS), mặc dù tế bào thần kinh khác
trong chất lưới tiếp giáp tủy cũng
đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát hô hấp. Các NTS là trạm cuối dẫn truyền
cảm giác của cả hai dây thần kinh X và các dây thần kinh thiệt hầu, mà truyền
tín hiệu cảm giác đến trung tâm hô hấp từ (1) thụ thể hóa học ngoại vi, (2)
thụ thể áp suất, và (3) một số loại thụ thể trong phổi.
Nhịp hít vào phát ra từ nhóm
hô hấp lưng
Các
nhịp cơ bản của sự hô hấp được tạo ra chủ yếu ở nhóm của tế bào thần kinh hô
hấp lưng. Ngay cả khi tất cả các dây thần kinh ngoại vi vào tủy đã được chia
ra từng phần và thân não đã được cắt ra cả trên và dưới vùng tủy, nhóm tế bào
thần kinh này vẫn phát ra xung động lặp đi lặp lại của điện thế hoạt động tế
bào thần kinh thì hít vào. Nguyên nhân cơ bản của những phóng lặp đi lặp lại
là không rõ. Ở động vật nguyên thủy, mạng lưới nơron đã được tìm thấy, trong
đó hoạt động của một tập hợp các tế bào thần kinh kích thích một bộ thứ hai,
mà lần lượt ức chế bộ đầu tiên. Sau đó, sau một thời gian, cơ chế tự động lập
lại liên tục trong suốt cuộc đời của con vật. Hầu hết các nhà sinh lý học hô
hấp tin rằng một số mạng lưới tế bào thần kinh tương tự trong con người, nằm
hoàn toàn bên trong tủy; nó có thể liên quan đến không chỉ các nhóm hô hấp
lưng mà còn các khu vực lân cận của tủy và nó nó chịu trách nhiệm về nhịp hô
hấp cơ bản.
|
Inspiratory “Ramp” Signal.
The nervous signal that is transmitted to the inspiratory
muscles, mainly the diaphragm, is not an instantaneous burst of action
potentials. Instead, it begins weakly and increases steadily in a ramp manner
for about 2 seconds in normal respiration.It then ceases abruptly for
approximately the next 3 seconds, which turns off the excitation of the
diaphragm and allows elastic recoil of the lungs and the chest wall to cause
expiration. Next, the inspiratory signal begins again for another cycle; this
cycle repeats again and again,with expiration occurring in between. Thus, the
inspiratory signal is a ramp signal. The obvious advantage of the ramp
is that it causes a steady increase in the volume of the lungs during
inspiration, rather than inspiratory gasps.
Two qualities of the inspiratory ramp are controlled,as
follows:
1. Control of the rate of increase of the ramp signal so that during heavy respiration, the ramp increases rapidly and therefore fills the lungs rapidly. 2. Control of the limiting point at which the ramp suddenly ceases, which is the usual method for controlling the rate of respiration; that is, the earlier the ramp ceases, the shorter the duration of inspiration. This method also shortens the duration of expiration. Thus, the frequency of respiration is increased. |
Tín hiệu “dốc” thì hít vào
Các tín hiệu thần kinh được truyền tới các cơ hít vào, chủ yếu là cơ hoành,
không phải là một xung động tức thời của điện thế hoạt động. Thay vào đó, nó
bắt đầu một cách yếu ớt và tăng đều đặn lên dốc trong khoảng 2 giây trong hô
hấp bình thường.Sau đó nó chấm dứt đột ngột khoảng 3 giây tiếp theo, tắt các
kích thích của cơ hoành và cho phép phổi co lại đàn hồi và thành ngực gây thở
ra. Tiếp theo, các tín hiệu hít vào bắt đầu một lần nữa cho chu kỳ khác; chu
trình này lặp đi lặp lại một lần nữa với thì thở ra xảy ra ở giữa. Như vậy,
tín hiệu hít vào là một tín hiệu đoạn đường dốc. Lợi thế rõ ràng của đoạn đường
dốc là nó gây ra một sự gia tăng ổn định thể tích phổi trong suốt thì hít
vào, chứ không phải là thở hổn hển.
Hai
tính chất của đoạn đường dốc hít vào được kiểm soát, như sau:
1.
Kiểm soát tốc độ tăng của tín hiệu dốc để trong hô hấp khó nhọc, tăng đường dốc
nhanh chóng và do đó lấp đầy phổi nhanh chóng.
2.
Kiểm soát các điểm giới hạn mà tại đó đoạn đường dốc đột nhiên ngưng lại, đó
là phương pháp thông thường để kiểm soát tần số hô hấp; đó là, đoạn đường dốc
càng sớm, quá trình hít vào càng ngắn. Phương pháp này cũng giúp rút ngắn thời
gian thở ra. Như vậy, tần số hô hấp tăng.
Người dịch: Xin Cute
|
Digestion and Absorption in the Gastrointestinal Tract (P792)
Bằng
chứng một số các đặc tính vật lý và hóa học
của chất béo ; ngoài ra; nó có
nguồn gốc từ chất béo và được chuyển hóa tương tự như chất béo. Do đó,
cholesterol được xem xét, từ xem
qua một điểm chế độ ăn uống, là một chất
béo.Tiêu hóa của chất béo Xảy ra chủ yếu trong đường ruột nhỏ.
Một lượng nhỏ triglycerides được tiêu
hóa trong dạ dày bởi lipase được tiết ra bởi các tuyến dưới
lưỡi trong miệng và nuốt với nước bọt. Lượng
tiêu hóa này là ít hơn 10 phần trăm và nói chung là không quan trọng.
Thay vào đó, về cơ bản
tiêu hóa tất cả các chất béo xảy ra ở ruột non như sau.Bước đầu trong Tiêu hóa chất béo là nhũ tương hóa bằng mật axit và lecithin. Bước đầu tiên
trong quá trình tiêu hóa chất béo là chất phá vỡ các giọt chất béo thành các
kích cỡ nhỏ để các enzyme tiêu hóa hòa tan trong nước có thể hoạt động trên bề
mặt giọt. Quá trình này được
gọi là nhũ tương hóa chất béo, và nó bắt đầu bằng cách co
bóp trong dạ dày để pha trộn các chất béo
với các sản phẩm tiêu hóa dạ dày.
Hầu hết
các nhũ tương hóa sau đó xảy ra ở tá tràng dưới ảnh hưởng của mật, sự bài tiết
từ gan mà không chứa b ất kỳ các enzym tiêu hóa. Tuy nhiên, mật có chứa một số lượng lớn các muối mật, cũng như các lecithin. Tất cả của những chất này, nhưng đặc biệt là lecithin, là cực kỳ
quan trọng đối với nhũ tương hóa của chất béo. Các bộ phận phân cực (tức là, các điểm nơi xảy ra sự ion hóa trong nước)
của các muối mật và các phân tử lecithin là hòa tan cao trong nước, trong khi
đó hầu hết các phần còn lại của các phân tử của chúng là hòa tan cao trong chất béo. Do đó, các phần tan trong chất béo của các tiết gan giải
thể trong các lớp bề mặt của giọt chất béo, với phần cực chiếu. Những dự báo
cực, lần lượt, có thể hòa tan trong chất lỏng chảy nước xung quanh, mà làm giảm
sức căng bề của chất béo rất nhiều và làm cho nó hòa tan là tốt.
Khi căng bề của một giọt chất lỏng
không thể trộn là thấp, chất lỏng không thể trộn lẫn này, khi kích động, có
thể được chia thành nhiều hạt nhỏ dễ dàng hơn nhiều so với nó có thể khi những
căng bề mặt là rất tốt. Do
đó, chức năng chính của các muối mật và lecithin (đặc biệt là các lecithin)
trong mật là làm cho các giọt chất béo dễ dàng phân tách bởi kích động với các nước trong ruột non. Hành động này
cũng giống như của nhiều chất tẩy rửa được sử dụng rộng rãi trong tẩy rửa gia
dụng để loại bỏ dầu mỡ.
Mỗi lần
đường kính của giọt chất béo được giảm đáng kể như là kết quả của kích động
trong ruột non, tổng diện tích bề mặt của chất béo làm tăng gấp bội.
Bởi vì đường kính trung bình của các hạt chất béo trong ruột sau khi nhũ tương hóa đã xảy ra ít hơn 1 micromet, điều này thể hiện sự gia tăng của nhiều như 1000 lần trong tổng diện tích bề mặt của chất béo gây ra bởi quá trình nhũ tương hóa.The lipase là nước hợp chất hòa tan trong và có thể tấn công các giọt chất béo trên bề mặt đĩa. |
DIGESTION
OF FATS.
Fats
of the Diet. By far the most abundant fats of the diet are the neutral fats,
also known as triglycerides, eachmolecule of which is composed of a glycerol
nucleus
and
three fatty acid side chains, as shown in Figure 66-3.Neutral fat is a major
constituent in food of animal origin but much less so in food of plant
origin.Small quantities of phospholipids, cholesterol, and cholesterol esters
are also present in the usual diet. The
phospholipids
and cholesterol esters contain fatty acid and therefore can be considered fats.
Cholesterol is a sterol compound that contains no fatty acid, but it does exhibit
some of the physical and chemical characteristics of fats; in addition, it is
derived from fats and is metabolized similarly to fats. Therefore,
cholesterol is considered, from a dietary point of view, to be a
fat.Digestion of Fats Occurs Mainly in the Small Intestine. A small
amount of triglycerides is
digested in the stomachby
lingual lipasesecreted by lingual glands in the mouth and
swallowed with the
saliva. This amount
of digestion is less
than 10 percent
and is generally
unimportant. Instead, essentially all fat digestion occurs in the
small intestine as follows.The
First Step in
Fat Digestion Is
Emulsification by
Bile
Acids and Lecithin. The first step in fat digestion is to physically break
the fat globules into small sizes so that the water-soluble digestive enzymes
can act on the globule surfaces.
This process is
called emulsification of the
fat,and it begins by agitation in the stomach to mix the fat
with
the products of stomach digestion.
Most
of the emulsification then occurs in the duodenum under
the influence of bile, the secretion
from the liver that
does not contain
any digestive enzymes. How ever, bile
does contain a
large quantity of bile
salts,as
well as the phospholipid lecithin.Both of these substances, but especially
the lecithin, are extremely
important for emulsification of
the fat.The polar
parts (i.e., the points
where ionization occurs
in water) of the
bile salts and
lecithin molecules are
highly soluble in water,
whereas most of
the remaining portions
of their molecules are
highly soluble in
fat. Therefore, the fat-soluble portions
of these liver
secretions dissolve in the
surface layer of
the fat globules,
with the polar portions projecting. The
polar projections, in
turn, are soluble in
the surrounding watery
fluids, which greatly decreases the interfacial tension
of the fat and makes it
soluble
as well.When the interfacial
tension of a
globule of nonmiscible fluid is low, this non-miscible
fluid, upon agitation, can be broken up into many tiny particles far more
easily than it
can when the
interfacial tension is
great. Consequently, a major function of the bile salts and lecithin
(especially the lecithin) in the bile is to make the fat globules readily
fragmentable by agitation with the water
in
the small bowel. This action is the same as that of many detergents that are
widely used in household cleaners for removing grease.
Each
time the diameters of the fat globules are significantly decreased as a
result of agitation in the small intestine, the total surface area of the fat
increases manyfold.
Because the
average diameter of
the fat particles
in the intestine after
emulsification has occurred is less than 1 micrometer, this
represents an increase
of as much
as
1000-fold
in total surface areas of the fats caused by the emulsification process.
The lipase
enzymes are water-soluble compounds and can
attack the fat
globules only on
their surfaces Consequently, this
detergent function of
bile salts and lecithin is very important for
digestion of fats.Triglycerides
Are Digested by
Pancreatic Lipase. By far the
most important enzyme for digestion of the triglycerides is pancreatic
lipase,present in enormous quantities in pancreatic juice, enough to digest
within 1 minute
all
triglycerides that it can reach. The enterocytes of the small intestine
contain additional lipase, known as enteric
lipase,but
it is usually not needed. End Products of Fat Digestion Are Free Fatty
Acids.Most of the triglycerides of the diet are split by pancreatic lipase
into free fatty acidsand 2-monoglycerides,as shown
in
Figure 66-4.Bile Salts Form
Micelles That Accelerate
Fat Digestion. The hydrolysis
of triglycerides is a highly reversible process; therefore, accumulation of
monoglycerides and free fatty acids
in the vicinity
of digesting fats
quickly
blocks
further digestion. However, the bile salts play the additional important role
of removing the monoglycerides and free fatty acids from the vicinity of the
digesting fat
globules
almost as rapidly as these end products of digestion are formed. This process
occurs in the following way.
When
bile salts are of a high enough concentration in water, they
have the propensity
to form micelles, which...
Người dịch: Ngô Tuấn |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)