Mặc
dù gan là một cơ quan riêng biệt,nhưng nó thực hiện nhiều chức năng khác
nhau.Điều đó được thể hiện rõ ràng khi có sự bất thường ở gan vì lúc đó nhiều
chức năng gan bị xáo trộn cùng một lúc.Chương này sẽ tóm tắt các chức năng
gan khác nhau như : (1) lọc và dự trữ máu ; (2) chuyển hóa carbohydrate,
protein, chất béo, hormon, và hóa chất từ bên ngoài. (3) tạo mật.;(4) lưu trữ
các vitamin và sắt ; (5) hình thành các yếu tố đông máu.
|
Although the
liver is a
discrete organ, it
performs many different interrelating functions. The becomes
especially evident when
abnormalities of the
liver occur because many
liver functions are
disturbed simultaneously.
This chapter summarizes
the different functions of the liver, including (1)
filtration and storage of blood; (2)
metabolism of carbohydrates, proteins,
fats, hormones, and foreign
chemicals; (3) formation of bile; (4) storage of vitamins and iron; and (5)
formation of coagulation factors
|
Giải phẫu sinh lý của gan
Gan
là cơ quan lớn nhất trong cơ thể, chiếm khoảng 2 % trọng lượng cơ thể, hay trung
bình khoảng 1,5 kg (3,3 pounds) ở người lớn. Đơn vị chức năng cơ bản của gan
là tiểu thùy gan,đó là một cấu trúc hình trụ với chiều dài vài mm và đường
kính từ 0.8-2 mm.Gan chứa từ 50.000-100.000 tiểu thùy.Tiểu thùy gan,được biểu
diễn ở sơ đồ cắt ngang hình 71-1,được tạo thành quanh một tĩnh mạch trung
tâm,mà đổ vào tĩnh mạch gan và sau đó đổ vào tĩnh mạch chủ.Tiểu thùy gan bao
gồm chủ yếu các bè tb gan(2 trong số đó thể hiện ở hình 71-1) tỏa ra từ tĩnh
mạch trung tâm như nan hoa của bánh xe.Mỗi bè gan có 2 hàng tế bào,và giữa các
tế bào kề nhau có đường ống mật nhỏ ,mà đổ vào những ống mật trong khoảng cửa
ngăn cách các tiểu thùy cạnh nhau.
Trong khoảng cửa là các nhánh nhỏ tĩnh mạch cửa,nhận máu chủ yếu
từ tĩnh mạch của đường tiêu hóa thông qua đường tĩnh mạch cửa.Từ những nhánh
này,máu chảy vào trong các bè gan,phân nhánh tới các xoang gan nằm giữa các
bè gan và sau đó đổ vào tĩnh mạch trung tâm.Do đó, các tế bào gan được tiếp
xúc liên tục với máu tĩnh mạch cửa.
Tiểu động mạch gan cũng có mặt trong khoảng cửa giữa các tiểu
thùy gan. Những tiểu động mạch này cung cấp máu đmạch cho mô khoảng cửa, và các
tiểu động mạch này cũng đổ trực tiếp vào các xoang gan,thường xuyên nhất đổ
vào những vùng nằm ở một phần ba khoảng cách từ khoảng cửa gian tiểu thùy gan,
như được thể hiện trong Hình 71-1.
Ngoài các tế bào gan, các xoang tĩnh mạch được lót bởi hai loại
tế bào khác: (1) các tế bào nội mô và (2) các tế bào Kupffer lớn (còn gọi là
tế bào lưới nội mô), đó là các đại thực bào khu trú và có khả năng thực bào
vi khuẩn và các tác nhân lạ trong máu xoang gan. Lớp nội mô lót xoang có các
lỗ vô cùng lớn,một số có đường kính gần 1 micromet. Bên dưới lớp niêm mạc
này,nằm giữa những tế bào nội mô và tế bào gan, là những khoảng mô hẹp gọi là
khoảng Disse, cũng được gọi là khoảng không xung quanh xoang.
Hàng triệu khoảng Disse nối với mạch bạch huyết nằm trong khoảng
của gian tiểu thùy gan. Vì vậy, dịch dư thừa trong các khoảng Disse này được
thoát ra qua hệ bạch huyết. Bởi vì của các lỗ lớn ở lớp nội mạc, các chất
trong huyết tương di chuyển tự do vào khoảng Disse. Thậm chí phần lớn protein
của huyết tương khuếch tán tự do vào những khoảng Disse này.
Gan mạch máu và
hệ thống bạch huyết
Chức năng của hệ thống mạch máu gan được thảo luận trong
Chương 15 trong sự liên kết với các tĩnh mạch cửa và có thể tóm tắt như sau:
Máu chảy vào gan thông qua tĩnh mạch cửa và động mạch gan
Gan có lưu lượng máu cao và và kháng trở mạch thấp.Mỗi phút có
khoảng 1050ml máu chảy theo tĩnh mạch cửa và gan và động mạch gan riêng,cung
cấp cho gan khoảng 300ml máu mỗi phút,tổng cộng có 1350ml chảy qua gan mỗi
phút,chiếm 27% cung lượng tim lúc nghỉ ngơi.
Áp lực trong tĩnh mạch cửa trung bình khoảng 9 mm Hg, và áp lực
tĩnh mạch gan xuất phát từ trong gan đến tĩnh mạch chủ thườngtrung bình khoảng
0 mm Hg.Sự chênh lệch áp lực nhỏ này,chỉ 9 mm Hg, cho thấy kháng trở mạch của
xoang gan thường rất thấp,đặc biệt khi thấy được lưu lượng máu chảy qua gan
1350ml mỗi phút.
Xơ gan tăng đánh kể kháng trở dòng máu.Khi các tế bào nhu mô
gan bị phá hủy,
chúng được thay thế bằng các mô xơ mà cuối cùng co hẹp xung
quanh các mạch máu, do đó cản trở rất nhiều
dòng chảy của máu qua gan. Quá trình bệnh diễn tiến như thế
này được gọi là bệnh xơ gan. Nó là kết quả thường gặp ở người nghiện rượu hoặc
từ sự dư thừa chất béo tích tụ trong gan và gan sau viêm, một tình trạng gọi
là viêm gan nhiễm mỡ không do rượu, hoặc
|
Physiological
Anatomy of the Liver
The liver is
the largest organ
in the body,
contributing about 2 percent of the total body weight, or about 1.5
kilograms (3.3 pounds) in the average adult human. The basic functional
unit of the
liver is the liver lobule,
which is a cylindrical structure several millimeters
in length and 0.8 to 2 millimeters
in diameter. The
human liver contains
50,000 to 100,000 individual lobules.The liver
lobule, shown in
cut-away format in Figure
71-1,is constructed around a central vein that empties into the
hepatic veins and then into the vena cava. The lobule is composed principally
of many liver cellular plates(two of which are shown in Figure 71-1) that
radiate from the central vein
like spokes in a wheel.
Each hepatic plate
is usually two cells thick, and between the adjacent cells lie small
bile canaliculi that empty into bile ducts in the fibrous septa separating
the adjacent liver lobules.
In the
septa are small portal venules that receive their blood mainly from the venous
outflow of the gastrointestinal
tract by way
of the portal
vein. From these
venules blood flows into
flat, branching hepatic sinusoids that lie between the hepatic plates and then into
the central vein. Thus, the hepatic cells are exposed continuously to portal venous
blood.
Hepatic arterioles are also
present in the
interlobular septa. These arterioles
supply arterial blood
to the septal tissues between the adjacent lobules,
and many of the small arterioles
also empty directly
into the hepatic
sinusoids, most frequently emptying
into those located
about one third the distance
from the interlobular septa, as shown in Figure 71-1.
In
addition to the hepatic cells, the venous sinusoids are lined by
two other cell
types: (1) typical endothelial cells and
(2) large Kupffer cells (also
called reticuloendothelial cells), which are resident macrophages that
line the sinusoids and are capable of phagocytizing bacteria and other
foreign matter in the hepatic sinus blood.The
endothelial lining of
the sinusoids has
extremely large pores, some
of which are
almost 1 micrometer
in diameter. Beneath this lining, lying between the endothelial cells
and the hepatic cells, are narrow tissue spaces called the spaces of Disse,
also known as the perisinusoidal spaces.
The millions
of spaces of
Disse connect with
lymphatic vessels in the interlobular septa. Therefore, excess fluid
in these spaces is removed through the lymphatics. Because of the
large pores in
the endothelium, substances
in the plasma move
freely into the
spaces of Disse.
Even large portions of
the plasma proteins
diffuse freely into
these spaces.
Hepatic Vascular and Lymph
Systems
The
function of the hepatic vascular system is discussed in Chapter 15 in
connection with the portal veins and can be summarized as follows.
Blood
Flows Through the Liver From the Portal
Vein
and Hepatic Artery.
The Liver
Has High Blood
Flow and Low
Vascular
Resistance.
About 1050 milliliters of blood flow from the portal vein
into the liver
sinusoids each minute,
and an additional 300
milliliters flow into the sinusoids from the hepatic artery, with the total
averaging about 1350 ml/min, which is 27 percent of the resting cardiac
output.
The pressure
in the portal
vein leading into
the liver averages about 9 mm
Hg, and the pressure in the hepatic vein
leading from the
liver into the
vena cava normally averages about
0 mm Hg. This small
pressure difference, only 9 mm Hg,
shows that the
resistance to blood
flow through the hepatic sinusoids is normally very low,
especially when one
considers that about
1350 milliliters of
blood flow by this route each minute.
Cirrhosis of
the Liver Greatly
Increases Resistance to
Blood
Flow. When liver parenchymal cells are destroyed, they are replaced with
fibrous tissue that eventually contracts around the blood vessels, thereby
greatly impeding the flow of
portal blood through
the liver. This
disease process is known
as cirrhosis of the
liver. It results
most commonly from chronic
alcoholism or from
excess fat accumulation in the
liver and subsequent liver inflammation,
a condition called nonalcoholic steatohepatitis, or
Người dịch: Ngô tuấn |
Tìm kiếm Blog này
Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016
Chương 71: The liver as an organ (P881)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét