Protein Metabolism
The body cannot dispense with the liver’s contribution
to protein metabolism for more than a few days without
death ensuing. The most important functions of the liver
in protein metabolism, as summarized from Chapter 70,
are the following:
1. Deamination of amino acids
2. Formation of urea for removal of ammonia from the
body
fluids
3. Formation of plasma proteins
4. Interconversions of the various
amino acids and synthesis of other compounds from amino acids
Deamination of amino acids is required before they can
be used for energy or converted into carbohydrates or fats.A
small amount of deamination can occur in the other tissues of the body,
especially in the kidneys, but it is much less important than the deamination
of amino acids by the liver.
Formation of urea by the liver removes ammonia from
the body fluids. Large amounts of ammonia are formed by the
deamination process, and additional amounts are continually formed in the gut
by bacteria and then absorbed into the blood. Therefore, if the liver does
not form urea, the plasma ammonia concentration rises rapidly and results in
hepatic coma and death. Indeed, even greatly decreased blood flow through the
liver—as occurs occasionally when a shunt develops between the portal vein
and the vena cava—can cause excessive ammonia in the blood, an extremely
toxic condition.
Essentially all the plasma proteins, with the exception of
part of the gamma globulins, are formed by the hepatic
cells, accounting for about 90 percent of all the plasma
proteins. The remaining gamma globulins are the antibodies formed
mainly by plasma cells in the lymph tissue of the body. The liver can form
plasma proteins at a maximum rate of 15 to 50 g/day. Therefore, even if as
much as half the plasma proteins are lost from the body, they can be replenished
in 1 or 2 weeks.
Plasma protein depletion causes rapid mitosis of
the
hepatic cells and growth of the liver to a larger size; these effects
are coupled with rapid output of plasma proteins until
the plasma concentration returns to normal. With chronic liver disease (e.g.,
cirrhosis), plasma proteins, such as albumin, may fall to very low levels,
causing generalized edema and ascites, as explained in Chapter 30.
Among the most important functions of the liver is its
ability to synthesize certain amino acids and other important chemical
compounds from amino acids.For instance,the so-called nonessential amino
acids can all be synthesized in the liver. To perform this function, a keto
acid having the same chemical composition (except at the keto
oxygen)
as that of the amino acid to be formed is synthesized. An amino
radical is then transferred through several stages of transamination from
an available amino acid to the keto acid to take the place of the keto oxygen.
Other Metabolic Functions of the Liver
The Liver Is a Storage Site for Vitamins. The liver has a particular propensity for storing vitamins and has long
been known as an excellent
source of certain vitamins in
the treatment of patients.
The vitamin stored in greatest
quantity in the liver is vitamin A, but large quantities of
vitamin D and vitamin B12 are
normally stored there as well. Sufficient quantities of vitamin A can be
stored to prevent vitamin A deficiency for as long as 10 months. Sufficient
quantities of vitamin D can be stored to prevent
deficiency for 3 to 4 months, and enough
vitamin B can be stored to last for at least 1 year and perhaps for several years.
The Liver Stores Iron as Ferritin. Except for the iron in the hemoglobin of the
blood, by far the greatest proportion of iron in the
body is stored in the liver in the form of ferritin.The hepatic cells contain
large amounts of a protein called apoferritin, which is
capable of combining reversibly with iron.
Therefore, when iron is available in the body fluids
in extra quantities, it combines with apoferritin to form ferritin and is stored in this form in the hepatic
cells until needed elsewhere.
When the iron in the circulating body
fluids reaches a low level, the ferritin releases the iron. Thus, the apoferritin-ferritin system of the liver acts
as a
blood iron buffer, as well as an iron
storage medium. Other functions of the liver in relation to iron metabolism
and red blood cell formation are considered in
Chapter 33.
The Liver Forms Blood Substances Used in Coagulation. Substances formed in the liver that are used
in the coagulation process include fibrinogen, prothrombin, accelerator globulin, factor VII, and several other
important factors. Vitamin K is required by the metabolic processes of the
liver for the formation of several of these substances, especially
prothrombin and factors VII, IX, and X. In the absence
of vitamin K, the concentrations of all these substances decrease markedly
and almost prevent blood coagulation.
The Liver Removes or Excretes Drugs, Hormones, and Other
Substances. The active chemical medium of the liver is well known for its
ability to detoxify or excrete many drugs into the bile,
including sulfonamides, penicillin, ampicillin, and erythromycin.
In a similar manner, several of the hormones secreted
by the endocrine glands are either chemically altered or
excreted by the liver, including thyroxine and essentially all the steroid hormones, such as estrogen,
cortisol, and aldosterone.Liver damage can lead to excess accumulation of one
or more of these hormones in the body fluids and therefore cause overactivity of the hormonal systems.
Finally, one of the major routes for excreting calcium
from the body is secretion by the liver into the bile, which then
passes into the gut and is lost in the feces.
Measurement of Bilirubin in the Bile as a Clinical Diagnostic
Tool
The formation of bile by the liver and the function of the
bile salts in the digestive and absorptive processes of the
addition, many substances are excreted in the bile and then eliminated
in the feces. One of these substances is the greenish-yellow pigment bilirubin,
which is a major end product of hemoglobin degradation, as pointed out in Chapter 33. However, it also
provides an exceedingly valuable tool for diagnosing both hemolytic blood
diseases and various types of liver diseases. Therefore, while referring to Figure71-2, let us explain this.
span (on average, 120
days) and have become too fragile
to exist in the circulatory system, their cell membranes
rupture, and the released hemoglobin is phagocytized
by tissue macrophages (also called
the reticuloendothelial system) throughout the body.
The hemoglobin is first split into globin and heme, and the heme ring is
opened to give (1) free iron, which is transported in the blood by transferrin,
and (2) a straight chain of four pyrrole nuclei, which
|
Chuyển hóa protein
Cơ thể không
thể thiếu vai trò của gan đối với chuyển hóa protein trong nhiều hơn vài ngày
mà không chết ngay sau đó.Chức năng quan trọng nhất của gan trong chuyển hóa
protein được tóm tắt từ chương 70:
1.Khử amin oxi hóa
2.Tạo ure để loại bỏ NH3 ra khỏi dịch cơ thể
3.Tạo protein huyết tương
4.Chuyển đổi qua lại nhiều loại a.amin và tổng hợp những hợp chất khác từ a.amin
Khử amin oxy hóa được yêu cầu trước khi chúng được sử dụng
tạo năng lượng hoặc chuyển đổi thành carbohydrat hoặc chất béo. Một phần nhỏ
của sự khử amin có thể diễn ra trong những mô khác của cơ thể, đặc biệt trong
thận nhưng nó ít quan trọng hơn sự khử amin oxy hóa trong gan.
Tạo urê bởi gan loại bỏ NH3 ra khỏi dịch cơ thể. Lượng lớn
NH3 được tạo ra bởi quá trình khử amin và một lượng phụ được hình thành liên tục ở ruột bởi vi khuẩn
và sau đó được hấp thu vào máu. Vì vậy, nếu gan không tạo ure thì nồng độ NH3
huyết tương tăng nhanh và gây ra hôn mê gan và tử vong. Thật vậy, ngay cả khi
giảm lượng lớn máu chảy qua gan-Như thỉnh thoảng xảy ra khi có một shunt phát
triển giữ tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch chủ-có thể gây ra tăng quá mức NH3 trong
máu, một bệnh cảnh nhiễm độc rất nặng.
Về bản chất, tất cả protein huyết tương ngoại trừ một phần
gamma-globulin, được tạo thành bởi những tế bào gan, chiếm khoảng 90% protein
huyết tương. Lượng gamma-globulin còn lại là kháng thể được tạo ra chủ yếu bởi
tế bào máu ở mô lympho của cơ thể. Gan có thể tạo protein huyết tương với tốt
độ cao nhất là 15-50g/ngày. Vì vậy, dù là gần như một nửa lượng protein bị mất
đi khỏi cơ thể, chúng có thể được được bổ sung trong 1 hoặc 2 tuần.
Sự mất protein huyết tương gây ra phân bào nhanh chóng tế
bào gan và sự phát triển tế bào gan về mặt kích thước; những hiệu ứng này gắn
liền với sự tổng hợp nhanh protein huyết tương cho đến khi nồng độ trong huyết
tương trở về bình thường. Với bệnh gan mạn tính ( vd: xơ gan...), protein huyết
tương như: albumin, có thể giảm đến mức rất thấp, gây ra phù toàn và báng, được
giải thích ở chương 30.
Một trong số những chức năng quan trọng nhất của gan là khả
năng tổng hợp một số a.amin và những hợp chất hóa học quan trọng khác từ
a.amin. Ví dụ như, những a.amin được gọi là không thiết yếu có thể được tổng
hợp tất cả ở gan. Để thực hiện chức năng này, Cần tổng hợp một a.ceton có cấu
tạo hóa học giống (trừ gốc oxy của ceton) như a.amin được tạo ra. Một gốc
amin sau đó được chuyển qua nhiều giai đoạn của sự transamin hóa từ một a.amin sẵn có đến một a.ceton để chiếm
chỗ của oxy trong keton.
Những chức
năng chuyển hóa khác của gan
Gan là một
nơi dự trữ vitamin. Gan có một thiên hướng đặc biệt đối với dữ trữ vitamin và
một thời gian dài được biết đến như một nguồn tuyệt vời của những vitamin nhất
định trong điều trị bệnh nhân. Vitamin được dự trữ với lượng lớn nhất ở gan
là vitamin A, nhưng lượng lớn vitamin D và vitamin B12 cũng thường được dự trữ ở đây. Lượng đủ vitamin
A có thể được dự trữ để ngăn chặn sự thiếu hụt vitamin A trong khoảng 10
tháng. Lượng đủ vitamin D có thể được dự trữ để ngăn ngừa sự thiếu hụt trong
khoảng 3-4 tháng và có đủ vitamin D được dự trữ để dùng trong vòng ít nhất 1 năm và có thể trong
nhiều năm.
Gan dự trữ Fe
dưới dạng Ferritin. Ngoại trừ Fe trong Hb của máu, tỉ lệ lớn nhất của Fe trong
cơ thể được dự trữ trong gan ở dạng ferritin. Tế bào gan chứa lượng lớn một
protein được gọi là apoferritin, mà có thể liên kết thuận nghịch với Fe. Vì vậy,
khi Fe có sẵn trong dịch cơ thể ở dạng tự do,nó kết hợp với apoferritin để tạo
thành ferritin và được dự trữ ở dạng này trong tế bào gan cho đến khi nơi
khác cần đến. Khi Fe trong dịch tuần hoàn cơ thể giảm đến một mức thấp,
Ferritin giải phóng Fe.Vì vậy, hệ thống apoferritin-ferritin của gan hoạt động
như một hệ đệm cho Fe trong máu, cũng như một trung gian dự trữ Fe. Những chức
năng khác của gan trong mối liên hệ với chuyển hóa Fe và sự tạo thành hồng cầu
được xem xét ở chương 33.
Gan tạo thành
những chất được sử dụng trong sự đông máu. Những chất được tạo thành ở
gan mà được sử dụng trong quá trình đông máu bao gồm Fibrinogen, Prothrombin,
globulin xúc tác, yếu tố VII và vài yếu tố quan trọng khác. Vitamin K cần thiết
cho quá trình chuyển hóa của gan để hình thành vài hợp chất này, đặc biệt là
prothrombin và những yếu tố VII, IX, X. Thiếu vitamin K, nồng độ của tất cả
những chất này giảm rõ rệt và hầu như ngăn cản sự đông máu.
Gan loại trừ
hoặc bài tiết thuốc, hormon và những chất khác. Hoạt động hóa
học tích cực của gan được biết đến với khả năng giải độc hoặc thải trừ nhiều
thuốc vào mật, bao gồm: sulfonamid, penicillin, ampicillin, và erythromycin.
Trong cùng một phương thức, vài hormon được bài tiết bởi các tuyến nội tiết
được chuyển đổi về mặt hóa học hoặc được đào thải bởi gan, bao gồm: thyroxin
và cơ bản là tất cả những hormon steroid như estrogen, cortisol và
aldosteron. Sự tổn thương gan có thể dẫn đến sự tích lũy quá mức của một hoặc
nhiều những hormon này trong dịch cơ thể và vì vậy gây ra hoạt động quá mức của
hệ thống hormon.
Cuối cùng, một trong những con đường chính đối với sự đào
thải Canxi khỏi cơ thể là sự bài tiết bởi gan vào dịch mật, mà sau đó đi vào
ruột và bị mất qua phân.
Đo lường
bilirubin trong dịch mật như một công cụ chẩn đoán lâm sàng
Sự hình thành mật của gan và chức năng của muối mật trong
quá trình tiêu hóa và hấp thu của ống ruột được thảo luận ở chương 65 và 66.
Bên cạnh đó, nhiều chất được bài tiết trong dịch mật và sau đó được thải ra
trong phân. Một trong những hợp chất này là bilirubin sắc tố vàng-hơi lục, là
một sản phẩm chính cuối cùng của sự
thoái hóa Hb, như được chỉ ra ở chương 33. Tuy nhiên, nó cũng cung cấp một
công cụ cực kì hữu ích chẩn đoán cả bệnh tan máu và nhiều thể của bệnh gan.Vì
vậy, trong khi được đề cập ở sơ đồ 71-2, hãy để chúng tôi giải thích điều
này.Một cách vắn tắt, khi tế bào hồng cầu đã sống quá vòng đời của chúng
(trung bình,120 ngày) và trở nên quá mong manh để tồn tại trong hệ tuần hoàn,
sự vỡ màng tế bào và giả phóng Hb được thực bào bởi mô đại thực bào ( cũng được
gọi là hệ thống lưới nội mô ) khắp cơ thể. Hb ban đầu bị tách ra thành
globulin và heme và nhân heme bị mở để sinh ra: (1) Fe tự do, được vận chuyển
trong máu bởi transferrin và (2) một chuỗi thẳng của 4 nhân pyrole, mà....
Người dịch: SP
|
Tìm kiếm Blog này
Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016
Chương 71: The liver as an organ (P884)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét